Tại Hội nghị Tổng kết năm học 2018 - 2019 và Triển khai nhiệm vụ năm học 2019 - 2020 đối với cấp tiểu học, Quyền Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học Thái Văn Tài đã trình bày báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2018 - 2019.
1. Kết thúc năm học 2018-2019 toàn quốc hiện có 13.995 trường tiểu học (với 16.794 điểm trường), trong đó số trường tiểu học công lập là 13.735 (giảm 1.052 trường so với năm học trước) và 260 trường ngoài công lập ; tỉ lệ trung bình trường tiểu học/xã là 1,25; tỉ lệ trung bình điểm trường/trường tiểu học là 1,26; nhiều trường tiểu học có từ 3 đến 5 điểm trường (chủ yếu ở các vùng miền núi).
Trong năm học các địa phương đã tích cực thực hiện sáp nhập các trường Tiểu học có qui mô nhỏ; trường Tiểu học với trường THCS có qui mô nhỏ; hoặc sáp nhập các điểm trường lại với nhau, khi thực hiện dựa trên nguyên tắc "tạo thuận lợi cho người dân, đảm bảo quyền lợi học tập của học sinh; phù hợp với quy hoạch đáp ứng được các yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục".
Tuy nhiên vẫn còn tình trạng một số khu đô thị, khu công nghiệp thiếu trường, lớp; thiếu đất xây dựng trường học; một số địa phương dồn dịch các điểm trường, sáp nhập trường “cơ học”, hiệu quả không cao. Sau khi sắp xếp, quy hoạch lại các điểm trường, tại một số địa bàn dân cư phân tán, giao thông bị chia cắt, ảnh hưởng đến việc đi học của học sinh mà chưa có giải pháp khắc phục; chưa thuận lợi cho người dân và bảo đảm quyền lợi học tập của học sinh. Sau sáp nhập, các trường gặp khó khăn do việc giải quyết chế độ, chính sách cho cán bộ quản lý; chưa giải quyết dứt điểm được tình trạng đội ngũ nhân viên văn phòng, kế toán... dôi dư sau sáp nhập.Nguồn từ hệ thống cơ sở dữ liệu toàn ngành (http://bgd.csdl.moet.gov.vn)
Bên cạnh việc sắp xếp, sáp nhập các trường tiểu học, các địa phương chú trọng duy trì, mở rộng số lượng lớp học và bổ sung phòng học kiên cố, bán kiên cố và giảm số phòng học tạm, mượn nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ở cấp tiểu học.Nguồn từ hệ thống cơ sở dữ liệu toàn ngành (http://bgd.csdl.moet.gov.vn)
2. Năm học 2018-2019 toàn quốc có tổng số học sinh tiểu học là 8.479.977 (tăng 479.495 học sinh so với năm học trước); tổng số lớp là 278.385 (tăng 1.914 lớp so với năm học trước); tỉ lệ trung bình học sinh/lớp là 30. Các địa phương đã làm tốt công tác điều tra phổ cập, dự báo được tình hình, vì thế số học sinh tăng nhưng các địa phương đã cơ bản đáp ứng được các điều kiện về cơ sở vật chất và giáo viên để thực hiện tổ chức dạy học đúng quy định của chương trình, đảm bảo số lượng học sinh/lớp theo đúng Điều lệ qui định. Tuy nhiên một số địa phương, khu đô thị và các thành phố lớn do áp lực tăng dân số cơ học quá nhanh dẫn đến sỹ số học sinh/lớp cao như Hà Nội, TPHCM, Đồng Nai, Hải Phòng...Nguồn từ hệ thống cơ sở dữ liệu toàn ngành (http://bgd.csdl.moet.gov.vn)
3. Toàn quốc có gần 400.000 giáo viên tiểu học, tỷ lệ trung bình giáo viên/lớp ở cấp tiểu học là 1,38 nhìn chung cơ bản đủ để thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, tuy nhiên một số địa phương có tỷ lệ giáo viên cho mỗi lớp còn thấp (Gia Lai: 1,23; Tuyên Quang: 1,25; Thanh Hóa, Sơn La: 1,26; Hưng Yên, Hải Phòng: 1,28; Nghệ An: 1,29.; số giáo viên đang thực hiện chế độ hợp đồng lao động khá nhiều (biên chế chính thức mới đạt tỷ lệ khoảng 85%), số giáo viên chưa được xét tuyển biên chế chính thức không yên tâm công tác, trong đó số lượng giáo viên đối với các môn học mới ở cấp tiểu học khi thực hiện chương trình mới chưa đáp ứng yêu cầu như môn Tiếng Anh, Tin học.
Trong năm học vừa qua, Bộ GD&ĐT đã báo cáo Chính phủ về đề xuất định biên cho ngành giáo dục khi thực hiện chương trình mới; Bộ Nội vụ đã có Công văn số 1495/BNV-TCBC ngày 05/4/2019 về việc yêu cầu UBND các tỉnh thành phố rà soát bổ sung biên chế sự nghiệp cho ngành giáo dục và y tế để có phương án giao bổ sung trong thời gian tới, hiện nay các địa phương đã tiến hành rà soát theo thẩm quyền và gửi về Bộ Nội vụ và Bộ GD&ĐT để báo cáo Chính phủ.Nguồn từ hệ thống cơ sở dữ liệu toàn ngành (http://bgd.csdl.moet.gov.vn)
Nguồn từ hệ thống cơ sở dữ liệu toàn ngành (http://bgd.csdl.moet.gov.vn)
I. Thực hiện chương trình giáo dục
1. Thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục
Tiếp tục triển khai thực hiện Công văn 4612/BGDĐT-GDTrH ngày 03/10/2017 hướng dẫn thực hiện CT GDPT hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất HS từ năm học 2017-2018, các địa phương đã chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục nghiêm túc, linh hoạt, sáng tạo, từng bước nâng cao và củng cố vững chắc chất lượng, hiệu quả giáo dục. Kết quả cụ thể như sau:
Việc giao quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục nhà trường đã được hầu hết các sở GDĐT, phòng GDĐT chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc. Các nhà trường đã xây dựng kế hoạch giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh thông qua việc tăng cường các hoạt động thực hành, hoạt động trải nghiệm, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường, địa phương và khả năng học tập của học sinh; chú trọng giáo dục đạo đức lối sống, kĩ năng sống, hiểu biết xã hội và bước đầu vận dụng kiến thức vào cuộc sống cho học sinh.
Các cơ sở giáo dục đã chủ động điều chỉnh nội dung dạy học một cách hợp lí nhằm đáp ứng yêu cầu, mục tiêu giáo dục tiểu học, phù hợp với đối tượng học sinh, đồng thời từng bước thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực của học sinh (những địa phương thực hiện tốt: Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Lào Cai, Quảng Nam, Lâm Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Đà Nẵng, Cà Mau, Bạc Liêu, Bình Thuận, Lai Châu,....).
Các địa phương thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 2325/CT-BGDĐT ngày 28/6/2013 về việc chấn chỉnh tình trạng dạy học trước chương trình lớp 1; Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 ban hành quy định về dạy thêm, học thêm; Chỉ thị số 5105/CT-BGDĐT ngày 03/11/2014 về việc chấn chỉnh tình trạng dạy thêm, học thêm đối với giáo dục tiểu học; Công văn số 2449/BGDĐT-GDTH ngày 27/5/2016 về việc khắc phục tình trạng chạy trường, chạy lớp; thực hiện nghiêm túc việc tinh giảm các cuộc thi dành cho giáo viên và học sinh theo Công văn số 1915/BGDĐT-GDTrH ngày 05/5/2017; không tổ chức thi học sinh giỏi ở tất cả các cấp quản lí (những địa phương thực hiện tốt: Hòa Bình, Phú Thọ, Nam Định, Khánh Hòa, Bắc Giang,…).
Tuy nhiên, ở một số địa phương vẫn còn hiện tượng giáo viên đưa thêm nội dung dạy học khá cao so với yêu cầu của chuẩn kiến thức - kĩ năng trong Chương trình giáo dục tiểu học theo quy định của Bộ GDĐT dẫn đến hiện tượng “quá tải” cho học sinh; tình trạng dạy thêm học thêm, dạy trước chương trình lớp 1 vẫn còn diễn ra một số nơi; việc chạy trường, chạy lớp, làm đẹp học bạ vẫn còn cần phải khắc phục trong thời gian tới.
2. Đổi mới đánh giá học sinh tiểu học
Các cơ sở giáo dục tiểu học tiếp tục thực hiện đổi mới đánh giá học sinh theo Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22/9/2016 sửa đổi bổ sung một số điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Thông tư 22).
Thông qua việc tổng kết ở địa phương về thực hiện Thông tư 22 cho thấy các cấp quản lí giáo dục, các cơ sở giáo dục tiểu học đã thực hiện nghiêm túc và rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai, thực hiện để phát huy những ưu điểm và khắc phục triệt để những hạn chế trong những năm học tiếp theo.
Các địa phương tiếp tục tiến hành hỗ trợ, tập huấn nâng cao năng lực cho giáo viên về kĩ thuật đánh giá thường xuyên học sinh theo Thông tư 22. Đồng thời, một số địa phương đã tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng phần mềm quản lí kết quả giáo dục của học sinh để giảm áp lực về hồ sơ, sổ sách, dành nhiều thời gian cho giáo viên quan tâm đến học sinh và đổi mới phương pháp dạy học.
Các sở GDĐT, phòng GDĐT đã chỉ đạo, thực hiện bàn giao chất lượng giáo dục cuối năm học một cách nghiêm túc và không để học sinh “ngồi nhầm lớp”, thực hiện khen thưởng học sinh đúng quy định (những địa phương thực hiện tốt: Lào Cai, Điện Biên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thái Nguyên, Hà Nam, Thanh Hóa, Quảng Bình, Lâm Đồng, Cần Thơ, Đồng Tháp, Sơn La,....).
Bên cạnh những kết quả rất đáng trân trọng về đổi mới đánh giá học sinh tiểu học như đã nêu ở trên, công tác này vẫn còn bộc lộ một số hạn chế: việc ra đề kiểm tra định kì ở một số địa phương còn nặng về kiến thức, một số nơi gặp trở ngại trong cách hiểu về các “mức” của bài tập quy định trong Thông tư 22; tình trạng “làm đẹp” Học bạ của học sinh, “mưa điểm mười” vẫn còn diễn ra ở một số cơ sở giáo dục và ngày càng có chiều hướng phổ biến, khiến dư luận và cha mẹ học sinh phân vân về cách đánh giá theo Thông tư 22.
3. Nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ (đặc biệt là Tiếng Anh) và Tin học
a) Dạy học ngoại ngữ
Phát huy thành quả của việc triển khai Đề án ngoại ngữ trong hệ thông giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020, nhiều địa phương đã khắc phục khó khăn, tạo được bước đột phá trong việc xây dựng đội ngũ giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất để tổ chức cho học sinh học Tiếng Anh với thời lượng 4 tiết/tuần và trên 4 tiết/tuần (Lai Châu: 98,49% HS học tiếng Anh được học 4 tiết/tuần, Bà Rịa - Vũng Tàu: 92 %, TP Hồ Chí Minh: 89%, Vĩnh Long: 85,36%, Cao Bằng: 84%, Bắc Kạn: 79,69 %, Bắc Giang: 76,35 %, Bình Định: 75,7 %, Bắc Ninh: 71,9 %, Điện Biên: 70%).
. Việc triển khai dạy học Tiếng Pháp song ngữ tiếp tục được duy trì và phát triển tại các địa phương (điển hình là Cần Thơ, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đắc Lâm Đồng.. ).
Năm học 2018-2019 tỉ lệ học sinh các lớp 3, 4, 5 được học tiếng Anh đạt 92%, tăng hơn so với năm học trước (86,6%). Tỷ lệ học sinh các lớp 1, 2 được học làm quen với Tiếng Anh tăng so với năm trước và đạt 28%. Các trường thực hiện chương trình thí điểm tiếng Nhật tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã hoàn thành 3 năm triển khai dạy thí điểm từ lớp 3 đến lớp 5 môn Tiếng Nhật ngoại ngữ 1, định hướng việc đánh giá và lựa chọn triển khai Tiếng Nhật ngoại ngữ 1 ở những trường đã thí điểm đồng thời xem xét mở rộng ở những trường có nhu cầu, nguyện vọng và đủ điều kiện triển khai thực hiện.
b) Dạy học Tin học
Các địa phương đã tiếp tục tổ chức dạy học môn Tin học các lớp 3, 4, 5 theo tinh thần chỉ đạo tại Công văn số 3868/BGDĐT-GDTH ngày 28/8/2018 của Bộ GDĐT. Trong đó, tăng cường điều kiện về đội ngũ và cơ sở vật chất, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng để nâng cao số lượng học sinh các lớp 3, 4, 5 được học Tin học; xây dựng kế hoạch bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên Tin học để nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học ở cấp tiểu học. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động giáo dục có nội dung Tin học - Công nghệ thông tin dưới hình thức các câu lạc bộ để học sinh được tiếp cận, hình thành các kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin vào học tập. Năm học 2018-2019, tỉ lệ học sinh các lớp 3, 4, 5 trong toàn quốc được học Tin học, đạt 62,93% (năm học 2017-2018 tỉ lệ này là 59,7% ) (Những địa phương thực hiện tốt: Long An, Vĩnh Long, Hà Nội, Bến Tre, TT-Huế, Quảng Bình, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định (xấp xỉ 100% học sinh lớp 3, 4, 5 được học tin học). Những địa phương còn nhiều khó khăn, tỷ lệ học sinh được học tin học thấp: Ninh Thuận, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Lai Châu, Đồng Nai, Thanh Hóa, Yên Bái (dưới 20% học sinh lớp 3, 4, 5 được học tin học. Trong đó Ninh Thuận, Bắc Cạn, Tuyên Quang chưa đạt 3% học sinh lớp 3, 4, 5 được học tin học)).
Bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khích lệ, việc dạy và học Tin học, ngoại ngữ ở một số địa phương chưa thực sự được quan tâm; chưa đảm bảo các điều kiện về giáo viên, về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học hai môn học này nên tỷ lệ học sinh được học còn thấp đặc biệt là môn tin học, chất lượng dạy học còn nhiều hạn chế cần được khắc phục (các địa phương có tỉ lệ học sinh được học Tin học chưa cao: Bắc Kạn, Tuyên Quang, Ninh Thuận, Đồng Nai,…).
4. Thực hiện giáo dục đối với trẻ khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và tăng cường dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số
a) Đối với trẻ khuyết tật
Bộ GDĐT ban hành Thông tư số 03/2018/TT-BGDĐT ngày 29/01/2018 Quy định về giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật, Quyết định số 338/QĐ-BGDĐT ngày 30/01/2018 ban hành Kế hoạch giáo dục người khuyết tật của ngành Giáo dục giai đoạn 2018-2020, Quyết định số 1463/QĐ-BGDĐT ngày 28/6/2019 ban hành Kế hoạch thực hiện “Đề án Hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tại cộng đồng giai đoạn 2018-2025”. Căn cứ vào Kế hoạch của Bộ GDĐT, các địa phương đã xây dựng và triển khai Kế hoạch giáo dục người khuyết tật giai đoạn 2018-2020 của địa phương mình. Năm học 2018-2019, các địa phương đã quan tâm mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục đối với trẻ khuyết tật theo Luật Người khuyết tật và các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục người khuyết tật; nắm chắc số liệu trẻ em khuyết tật trong độ tuổi tiểu học, huy động tối đa số trẻ khuyết tật học hòa nhập.
Trong năm học 2018-2019, Bộ GDĐT thành lập và đưa vào hoạt động Trung tâm Giáo dục đặc biệt quốc gia thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam; Một số địa phương đã tích cực thành lập hoặc đang xây dựng đề án xây dựng Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập và bước đầu đưa vào hoạt động có hiệu quả (những địa phương thực hiện tốt: Điện Biên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Cần Thơ, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Lâm Đồng, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Vĩnh Long, Cà Mau, Gia Lai, Tiền Giang, Quảng Ngãi, Phú Yên, Ninh Thuận, …).
b) Đối với trẻ lang thang cơ nhỡ
Các địa phương đã chú trọng tổ chức các lớp học linh hoạt cho trẻ em lang thang, cơ nhỡ theo kế hoạch dạy học và thời khoá biểu được điều chỉnh phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện của địa phương. Trong đó, nội dung dạy học tập trung vào các môn Tiếng Việt, Toán nhằm rèn kĩ năng đọc, viết và tính toán cho học sinh. Bên cạnh đó, dựa theo số lượng trẻ, các địa phương đã tổ chức cho các em học sinh thuộc nhóm này học theo các ghép có với các trình độ với trình độ khác nhau (các tỉnh thực hiện tốt: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng, Đắk Lắk, Vĩnh Long,…).
c) Đối với học sinh dân tộc thiểu số
Thực hiện theo Quyết định số 1008/QĐ-TTg ngày 02 tháng 6 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025”, Bộ GDĐT đã hướng dẫn các địa phương tập huấn và triển khai dạy học tăng cường tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số, các địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch và căn cứ vào điều kiện thực tế đã chỉ đạo các sở, phòng GDĐT, các nhà trường thực hiện hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số đảm bảo cho học sinh đạt chuẩn năng lực tiếng Việt của mỗi khối lớp và của cấp học.
Nhiều địa phương đã chú trọng xây dựng môi trường giao tiếp tiếng Việt cho học sinh qua các hoạt động dạy học tiếng Việt trong các môn học và hoạt động giáo dục; tổ chức các trò chơi học tập, các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ; sử dụng hiệu quả các phương tiện hỗ trợ các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh; sử dụng hiệu quả thư viện thân thiện, thư viện lưu động; tổ chức ngày hội đọc sách, thi kể chuyện, giao lưu “Tiếng Việt của chúng em”;… cho học sinh dân tộc thiểu số (những địa phương thực hiện tốt: Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Điện Biên, Bắc Giang, Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Điện Biên, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Sóc Trăng, Hậu Giang, Kiên Giang, Cà Mau...).
Bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng trân trọng, việc nâng cao chất lượng dạy học đối với học sinh dân tộc thiểu số, học sinh có hoàn cảnh khó khăn và học sinh khuyết tật ở một số địa phương chưa được coi trọng và quan tâm đúng mức, chưa có những giải pháp tích cực, trong đó có công tác tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chưa thường xuyên, chưa hiệu quả nên việc thực hiện chính sách đối với các đối tượng học sinh nói trên còn nhiều hạn chế cần được khắc phục.
5. Tổ chức các hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa
Các cơ sở giáo dục đã thực hiện nghiêm việc chuyển mạnh các hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa sang hướng tổ chức hoạt động trải nghiệm; tập trung vào các hoạt động rèn kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, làm quen với một số nghề truyền thống ở địa phương. Qua đó, từng bước đã tạo được sự chuyển biến tích cực, nâng cao chất lượng trong các hoạt động giáo dục học sinh tại các cơ sở giáo dục (những địa phương thực hiện tốt: Phú Thọ, Tuyên Quang, Quảng Ngãi, Điện Biên, Bình Phước, Ninh Thuận, Đồng Tháp, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa, Trà Vinh, Hậu Giang,...).
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa còn chậm chuyển biến. Ở một số địa phương, việc thực hiện tổ chức hoạt động trải nghiệm, rèn kỹ năng sống còn mang tính hình thức, chưa thực chất và hiệu quả chưa cao.
6. Chỉ đạo dạy và học 2 buổi/ngày
Các địa phương đã tập trung chỉ đạo các cơ sở giáo dục tiểu học đủ điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức dạy học 2 buổi/ngày với thời lượng tối đa 7 tiết học/ngày, trong đó chú trọng đến việc học sinh được tự học có sự hướng dẫn của giáo viên để hoàn thành nội dung học tập tại lớp, không phải làm bài tập về nhà và được tham gia các môn học/hoạt động giáo dục tự chọn, tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ, hoạt động ngoại khoá. Đối với những vùng khó khăn, vùng có đông học sinh dân tộc thiểu số, các cơ sở giáo dục tổ chức dạy học 2 buổi/ngày đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tăng cường tiếng Việt bằng các hình thức đa dạng và phong phú để học sinh có nhiều cơ hội giao tiếp bằng tiếng Việt.
Nhiều địa phương đã tích cực xã hội hóa, tăng các nguồn lực để hợp đồng thêm giáo viên trợ giảng đối với những lớp học có số lượng học sinh trên lớp nhiều hơn so với quy định nhằm nâng cao chất lượng dạy học 2 buổi/ngày. Năm học 2018-2019, tỉ lệ học sinh tiểu học trong toàn quốc được học 2 buổi/ngày đạt 80,0,6%, tăng hơn so với năm học trước (năm học 2017-2018 tỉ lệ này là 74,8%). Những địa phương thực hiện tốt: Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Điện Biên, Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Phú Thọ, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bến Tre, Hậu Giang,...
Tuy nhiên, việc triển khai dạy và học 2 buổi/ngày vẫn còn những hạn chế nhất định cả về quy mô, cách thức triển khai và chất lượng. Một số cơ sở giáo dục bố trí chưa hợp lí thời lượng dạy buổi thứ 2 trong ngày, chỉ tập trung vào dạy hai môn Toán và Tiếng Việt; cá biệt có nơi chủ yếu dạy thêm nội dung hoặc cho học sinh làm bài tập ngoài sách giáo khoa, tạo nên sự quá tải không cần thiết và chưa đáp ứng nhu cầu thực sự của học sinh.
7. Tổ chức các hoạt động phát triển năng lực học sinh
Một số địa phương đã quan tâm, khuyến khích các cơ sở giáo dục tổ chức các hoạt động giáo dục, giao lưu, các sân chơi trí tuệ bổ ích và thân thiện nhằm phát triển năng lực học sinh: giao lưu tìm hiểu An toàn giao thông, giao lưu Tiếng Việt của chúng em, câu lạc bộ tiếng Anh, Tin học, Robotics, câu lạc bộ sáo Recorder,… trên tinh thần tự nguyện tham gia của học sinh và nhà trường. Trong đó, chỉ đạo các sở GDĐT, phòng GDĐT, các nhà trường tổ chức các hoạt động giáo dục, sân chơi trí tuệ và giao lưu phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và nội dung học tập của học sinh tiểu học; không thành lập đội tuyển, không tổ chức ôn luyện, tập huấn gây áp lực và căng thẳng cho học sinh; không căn cứ vào kết quả của học sinh tham gia các hoạt động giao lưu và “sân chơi” để xếp loại thi đua đối với các đơn vị (những địa phương thực hiện tốt: Quảng Ngãi, Bình Phước, Ninh Thuận, Đồng Tháp, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa, Trà Vinh, Hậu Giang,...).
II. Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
1. Đổi mới phương pháp dạy học
Hầu hết các địa phương đã chỉ đạo thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học, CTGDPT hiện hành và đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học theo Công văn số 4612/BGDĐT-GDTrH ngày 03/10/2017 về việc hướng dẫn thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017-2018, từ đó tạo thuận lợi cho các trường tiểu học thực hiện đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, cụ thể:
- Thực hiện Công văn số 4068/BGDĐT-GDTrH ngày 18/8/2016 của Bộ GDĐT và căn cứ nhu cầu, điều kiện của địa phương, các sở GDĐT đã xây dựng kế hoạch triển khai mô hình trường học mới trên cơ sở rà soát lại các điều kiện bảo đảm; thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo trong Công văn số 3459/BGDĐT-GDTrH ngày 08/8/2017 của Bộ GD&ĐT (những địa phương thực hiện tốt: Ninh Bình, Lào Cai, Quảng Bình, Hà Nội, Điện Biên, Hưng Yên, Hà Nam, Quảng Bình, Quảng Trị, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Kiên Giang, Cần Thơ, Kon Tum...).
- Các sở GDĐT, phòng GDĐT tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục tiểu học thực hiện phương pháp “Bàn tay nặn bột” (PPBTNB) theo Công văn số 3535/BGDĐT-GDTrH ngày 27/5/2013 của Bộ GDĐT; xây dựng, hoàn thiện các tiết dạy, bài dạy, chủ đề áp dụng PP-BTNB; tổ chức các giờ học cho học sinh tự thiết kế, thực hành các thí nghiệm với các vật liệu đơn giản, dễ thực hiện. Đặc biệt, Trung tâm “phương pháp Bàn tay nặn bột” tại Bình Định được Bộ GDĐT chỉ đạo xây dựng từ những năm học trước đã đi vào hoạt động, bước đầu phát huy tác dụng và đạt kết quả tốt. Trong năm học 2017-2018, Trung tâm đã tổ chức được nhiều lớp tập huấn, hội thảo chia sẻ kinh nghiệm dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột (tổ chức dạy thực nghiệm được 9 chủ đề) và các phương pháp dạy học tích cực khác. Với lợi thế của một địa phương có Trung tâm “phương pháp Bàn tay nặn bột”, Sở GDĐT tỉnh Bình Định, trong năm học vừa qua đã chỉ đạo các trường tiểu học vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học với 824 tiết Tự nhiên - Xã hội và 652 tiết Khoa học. Những địa phương thực hiện tốt: Bình Định, Hải Phòng, Thừa Thiên - Huế, Khánh Hòa, Bình Định, Ninh Bình, Long An, Nghệ An, Tuyên Quang, Hà Nam, Nam Định, Hà Nội, Cần Thơ, Lạng Sơn,...
- Các sở GDĐT chỉ đạo các phòng GDĐT, Hiệu trưởng trường tiểu học tiếp tục thực hiện dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới ở các trường tiểu học theo Công văn số 2070/BGDĐT-GDTH ngày 12/5/2016 của Bộ GDĐT, đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên Mĩ thuật được chủ động sắp xếp bài dạy theo hướng nhóm các nội dung bài học thành các chủ đề theo hướng dẫn tại “Tài liệu dạy học Mĩ thuật dành cho giáo viên tiểu học” phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo yêu cầu đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, góp phần tích cực phát triển năng lực và phẩm chất học sinh.
2. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, gắn giáo dục nhà trường với thực tiễn cuộc sống
Các sở GDĐT, phòng GDĐT đã quan tâm chỉ đạo các cơ sở giáo dục thực hiện dạy học gắn kết giữa lí thuyết với thực hành; tăng cường các hoạt động trải nghiệm, vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống của học sinh. Lồng ghép, tích hợp giáo dục đạo đức, nhân cách; giáo dục quốc phòng và an ninh; giáo dục pháp luật; giáo dục nhận thức về quyền và bổn phận của trẻ em, bình đẳng giới; giáo dục phòng chống tai nạn thương tích, chú trọng giáo dục lối sống, kĩ năng sống, các kĩ năng tự bảo vệ, chống xâm hại, bạo lực; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe và y tế trường học; tuyên truyền, giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển đảo; bảo vệ môi trường; bảo tồn thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, giáo dục an toàn giao thông,…
Một số địa phương đã tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, sách báo, tài liệu tham khảo để xây dựng và sử dụng hiệu quả thư viện, tủ sách lớp học, thư viện trường học; tổ chức các hoạt động giáo dục tại thư viện nhằm phát huy tốt công năng của thư viện và phát triển văn hóa đọc cho học sinh, góp phần tích cực nâng cao chất lượng dạy và học trong các cơ sở giáo dục. Thông qua các hoạt động của thư viện thân thiện trường Tiểu học, đội ngũ giáo viên được tiếp cận đối với phương pháp tổ chức hoạt động và dạy học hiện đại, nâng cao năng lực, nghiệp vụ của cán bộ quản lý và cán bộ thư viện; nâng cao chất lượng học tập của học sinh, đặc biệt là chất lượng học tập môn Tiếng Việt; phát triển các kĩ năng và hình thành thói quen đọc sách, tự học cho các em học sinh. Mô hình thư viện thân thiện trường Tiểu học đã được khẳng định được tính thiết thực và đáp ứng được nhu cầu trong cuộc sống thực tiễn tại các địa phương: Bắc Giang, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lào Cai, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ, Khánh Hòa, Tây Ninh, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau…
III. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục tiểu học
Công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên chuẩn bị cho triển khai đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã được các địa phương tích cực củ động xây dựng kế hoạch, phối hợp với các đơn vị chức năng triển khai thực hiện; công tác bồi dưỡng thường xuyên, chuẩn nghề nghiệp đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục cấp tiểu học được thực hiện nghiêm túc.
Nhằm giảm áp lực về sổ sách cho giáo viên, Bộ GDĐT đã ban hành Chỉ thị số 138/CT-BGDĐT ngày 18/01/2019 về việc chấn chỉnh tình trạng lạm dụng hồ sơ trong nhà trường. Đến nay qua kiểm tra, hầu hết các địa phương đã có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai Chỉ thị; nhiều địa phương, cơ sở giáo dục tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, sử dụng hồ sơ điện tử thay cho hồ sơ, sổ sách giấy.
Trong năm học, các địa phương đã tăng cường chỉ đạo, khắc phục tình trạng vi phạm đạo đức nhà giáo; tổ chức thanh tra, kiểm tra các cơ sở giáo dục trong việc thực hiện quy định về môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và phòng, chống các vi phạm về đạo đức nhà giáo; thường xuyên rà soát, phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp; không bố trí đứng lớp các giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, kiên quyết xử lí nghiêm những trường hợp vi phạm đạo đức nhà giáo theo quy định của pháp luật.
Các địa phương đã chú trọng phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục tiểu học đủ về số lượng, hợp lí về cơ cấu và đáp ứng yêu cầu về chất lượng, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho việc triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới đủ về các môn học và định mức theo yêu cầu. Các sở GDĐT đã tiến hành rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên theo chuẩn hiệu trưởng cơ sở giáo dục phổ thông[7], chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông[8], trên cơ sở đó xây dựng và thực hiện kế hoạch bồi dưỡng nâng cao năng lực để đáp ứng chuẩn.
Tuy nhiên công tác nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục, tích cực đổi mới công tác quản lí giáo dục ở một số địa phương, một số cơ sở giáo dục tiểu học vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Một số cơ sở giáo dục chưa đổi mới nội dung, phương pháp bồi dưỡng giáo viên, chưa đổi mới công tác quản trị nhà trường. Một số cơ sở giáo dục vẫn để diễn ra tình trạng chạy theo “bệnh thành tích”; chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ trường học, có nơi còn để xảy ra tình trạng mất dân chủ dẫn đến mất đoàn kết trong đơn vị. Cá biệt còn có cán bộ giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, để xảy ra sự việc đáng tiếc, gây nên bức xúc trong dư luận xã hội.
Một số địa phương vẫn còn tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ giữa các môn học, nhiều tỉnh hiện nay tỷ lệ giáo viên hợp đồng còn nhiều chưa được xét tuyển kịp thời; một số địa phương thực hiện tinh giản biên chế khá cứng nhắc, chưa chủ động xây dựng kế hoạch biên chế giáo viên gắn với quy mô phát triển dân số và lộ trình thực hiện chương trình GDPT mới, do vậy không có biên chế để tuyển mới, dẫn đến thiếu giáo viên theo định mức để tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày.
IV. Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ quản lý giáo dục tiểu học
Các sở GDĐT đã tích cực triển khai thực hiện Thông tư quy định chuẩn hiệu trưởng cơ sở giáo dục phổ thông đối với cấp tiểu học; tăng cường bồi dưỡng một số năng lực cho cán bộ quản lý giáo dục đang còn thiếu hoặc yếu; triển khai các lớp bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý về tài chính, chỉ đạo các hoạt động dạy và học, công tác xây dựng kế hoạch ngắn hạn, trung hạn cho hiệu trưởng các cơ sở giáo dục cấp tiểu học.
Đẩy mạnh phân cấp quản lí, giao quyền tự chủ cho cơ sở; thực hiện Quy chế công khai đối với cơ sở giáo dục và đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo Thông tư số 36/2017/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ GDĐT. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lí; tổ chức hội nghị, họp giao ban, tập huấn qua mạng trực tuyến một cách hiệu quả; thực hiện linh hoạt chế độ báo cáo nhanh bằng thư điện tử nhằm thu thập và quản lí thông tin kịp thời, thông suốt giữa các cấp quản lí giáo dục từ sở, phòng và cơ sở giáo dục; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí, đánh giá học sinh tiểu học; sử dụng sổ điểm điện tử; sử dụng các hệ thống thông tin quản lí, thống kê, báo cáo theo quy định của Bộ GDĐT. Khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục tiểu học, nhất là trong công tác kiểm tra, công nhận phổ cập giáo dục, công nhận trường tiểu học đạt Chuẩn Quốc gia, khen thưởng học sinh cuối năm, “làm đẹp hồ sơ, học bạ” (những địa phương thực hiện tốt: Đồng Tháp, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Quảng Ninh, Bình Định, Tuyên Quang, Bắc Ninh, An Giang,...).
Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và QLGD cần được đẩy mạnh hơn nữa trong năm học tới, góp phần tích cực đổi mới đồng bộ các khâu trong quá trình tổ chức, thực hiện các hoạt động giáo dục, hoạt động dạy và thông suốt giữa các cấp quản lí giáo dục theo hướng chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin một cách chuyên nghiệp và hiệu quả.
V. Duy trì, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và nâng cao chất lượng xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia
1. Duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học
Các địa phương đã tích cực, chủ động tham mưu với các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương kiện toàn ban chỉ đạo phổ cập giáo dục; xây dựng kế hoạch, tập trung mọi nguồn lực với giải pháp tích cực để củng cố, duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học (PCGDTH) vững chắc và phấn đấu đạt chuẩn mức độ cao hơn để nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học.
Các cơ sở giáo dục đã có nhiều biện pháp và tạo các điều kiện để huy động tối đa trẻ em trong độ tuổi vào học tiểu học tại địa bàn, nhất là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và trẻ em khuyết tật được đi học và hoàn thành chương trình tiểu học. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra công nhận, công nhận lại các đơn vị đã đạt chuẩn PCGDTH theo các mức độ để đảm bảo phản ánh đúng tình hình thực tế, thực chất kết quả công tác PCGDTH; triển khai thực hiện hệ thống thông tin quản lí phổ cập giáo dục, xóa mù chữ đồng bộ, hiệu quả.
Đến thời điểm cuối năm học 2018-2019, cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố duy trì và đạt chuẩn PCGDTH, đạt tỉ lệ 100%, trong đó có 16/63 tỉnh, thành phố được Bộ GDĐT công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, đạt tỉ lệ 25,4%. Gồm các tỉnh: Thái Bình, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Dương, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Ninh Bình, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hà Nội, Hà Tĩnh, Phú Thọ, Hoà Bình, Thanh Hoá, Hậu Giang. Một số tỉnh khác đã hoàn thành việc đánh giá công nhận tại địa phương và đang đề nghị Bộ GDĐT kiểm tra công nhận đạt chuẩn PCGDTH mức độ 3 (Khánh Hoà, Phú Yên).Nguồn tổng hợp từ các báo cáo của địa phương.
2. Xây dựng trường tiểu học theo chuẩn quốc gia
Các địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch và tích cực tổ chức thực hiện việc rà soát, xây dựng, kiểm tra, công nhận, công nhận lại trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Năm học 2018 - 2019, nhiều địa phương công nhận thêm trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Đến nay, tỉ lệ trung bình trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia trên toàn quốc đạt 66%, tăng 5,4% so với năm học trước, trong đó cả nước có 1.946 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 đạt tỉ lệ 13,9%, tăng 2,9% so với năm học trước.
Tuy nhiên, việc duy trì, nâng cao chất lượng PCGDTH và xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia chưa thật sự đồng đều giữa các tỉnh, thành phố. Do những điều kiện đặc thù về kinh tế xã hội giữa các khu vực, vùng miền khác nhau nên công tác này ở các địa phương cũng có những thuận lợi, khó khăn khác nhau. Ở các thành phố lớn có thể thuận lợi về công tác PCGDTH nhưng lại rất khó khăn về tiêu chuẩn cơ sở vật chất (khuôn viên, diện tích) trong việc xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia và ở các tỉnh miền núi, vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì ngược lại, công tác PCGDTH sẽ có nhiều bất cập. Từ thực tế trên rất cần các địa phương có những giải pháp thiết thực, hiệu quả để phát huy những thế mạnh và khắc phục những khó khăn, bất cập. Trong đó việc tham mưu của ngành giáo dục về công tác quy hoạch cơ sở mạng lưới trường lớp ở các địa phương có vai trò rất quan trọng.
VI. Đẩy mạnh công tác truyền thông về giáo dục tiểu học
Trong năm học vừa qua, các địa phương tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và của Bộ GDĐT về đổi mới và phát triển giáo dục. Tuyên truyền những kết quả đạt được để xã hội hiểu và chia sẻ, đồng thuận với các chủ trương đổi mới về giáo dục tiểu học; xây dựng kế hoạch truyền thông, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo, đài địa phương, kịp thời, chủ động cung cấp thông tin để định hướng dư luận, tạo niềm tin của xã hội.
Các cán bộ quản lý, giáo viên tiểu học đã chủ động viết và đưa tin, bài về các hoạt động của ngành, nhất là các gương người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến của cấp tiểu học. Qua đó đã khích lệ các thầy cô giáo, các em học sinh phấn đấu, vươn lên, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng (những địa phương thực hiện tốt: TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc,...).
Tuy nhiên vẫn còn một số địa phương chưa thực hiện tốt công tác này nên những chủ trương mới của ngành giáo dục chưa đến được với người dân, cha mẹ học sinh, vì thế chưa tạo được sự đồng thuận từ dư luận và niềm tin của cộng đồng tại địa phương.
1. Chất lượng giáo dục tiểu học
Giáo dục tiểu học tiếp tục đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp dạy học và hình thức tổ chức, phương pháp đánh giá học sinh; chuyển từ truyền thụ kiến thức sang tổ chức hoạt động học tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; bước đầu sử dụng các hình thức dạy học trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, chú ý các hoạt động trải nghiệm để học sinh vận dụng kiến thức, phát triển năng lực; thực hiện nghiêm việc xây dựng ma trận đề kiểm tra định kỳ, tăng cường hướng dẫn giáo viên thực hiện đúng quy trình ra đề kiểm tra, đánh giá định kỳ các môn học. Chính vì thế năm học 2018-2019, chất lượng giáo dục tiếp tục được nâng lên và duy trì vững chắc, dưới đây là biểu đồ thể hiện kết quả đánh giá định kỳ đối với các môn học Tiếng Việt, Toán và kết quả đánh giá định kỳ đối với năng lực, phẩm chất:
2. Những ưu điểm nổi bật
Các địa phương tiếp tục duy trì và phát triển được mạng lưới trường, lớp tiểu học đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ tiếp tục được các địa phương quan tâm.
Các địa phương đã quan tâm nhiều hơn đến việc đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ để tăng tỉ lệ học sinh được học 2 buổi/ngày, hiện nay tỉ lệ này đạt 80,06%[1] (năm học trước đạt 74,8%). Nhiều địa phương đã đạt tỉ lệ 100% học sinh học 2 buổi/ngày. Phong trào xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia cũng đạt một số kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh toàn ngành thực hiện việc dồn dịch điểm trường với tỉ lệ trường tiểu học đạt Chuẩn Quốc gia của cả nước là 59,7%. Đây là những điều kiện rất thuận lợi để chuẩn bị cho việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông.
Các chỉ đạo đổi mới về đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT đã dần đi vào thực tiễn, giúp cho cán bộ quản lí, giáo viên tiểu học khắc phục được những bất cập, khó khăn khi thực hiện. Phần lớn các cơ sở giáo dục tiểu học đều thực hiện tốt và đúng các quy định đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT.
Các địa phương đã vận dụng nhiều hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, gắn kiến thức học trong nhà trường với thực tiễn, tăng cường kĩ năng sống,…
Các địa phương đã tiếp tục quan tâm nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh vùng sâu, vùng xa, học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Cơ sở vật chất phòng học, phòng chức năng tiếp tục được nâng cấp, xây dựng thêm trường lớp, sân chơi, cây xanh, thảm cỏ ngày càng khang trang, sạch đẹp. Nhờ vậy đã góp phần hạn chế học sinh lưu ban, bỏ học và tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc một cách thiết thực, hiệu quả.
3. Những hạn chế, bất cập
Công tác tham mưu của cán bộ quản lí giáo dục ở một số đơn vị thiếu chủ động, chưa tích cực, hiệu quả chưa cao; tại một số địa phương việc phân cấp quản lí giáo dục chưa hợp lí, chưa phát huy được tính chủ động, tự chịu trách nhiệm và sáng tạo của người đứng đầu các cơ sở giáo dục. Vì vậy một số cán bộ quản lí chưa mạnh dạn hoặc không giám thực hiện các giải pháp đổi mới quản lí, đổi mới phương pháp giáo dục của cấp học; chưa mạnh dạn triển khai thực hiện những chủ trương đổi mới của ngành; chưa tạo động cơ, khuyến khích sự đổi mới, sáng tạo của giáo viên.
Tỷ lệ giáo viên hợp đồng chưa được xét tuyển chính thức còn nhiều (khoảng 15%) nên chưa yên tâm công tác. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên chưa đồng đều; cơ cấu đội ngũ chưa hợp lí, một số nơi thiếu trầm trong giáo viên các môn chuyên như Tiếng anh, Tin học, Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục; thực hiện đổi mới phương pháp dạy học của một bộ phận giáo viên còn yếu; việc tiếp cận thông tin của giáo viên vùng khó khăn còn hạn chế.
Việc thực hiện giảm áp lực cho giáo viên (áp lực công việc, sổ sách, dư luận, áp lực điểm số từ phía phụ huynh học sinh, sỹ số lớp học, môi trường làm việc dân chủ...) chưa được các cấp quản lí chú trọng chỉ đạo thực hiện. Việc đánh giá giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp và theo Nghị định 56/2015/NQ-CP ở một số trường tiểu học còn hình thức, chưa phản ánh đúng năng lực và hiệu quả công việc, thậm chí còn biểu hiện thiếu dân chủ,... chưa tạo động lực để giáo viên phấn đấu vươn lên; công tác bồi dưỡng giáo viên chưa hiệu quả.
Thực hiện quản lí các trường có yếu tố nước ngoài, các chương trình tích hợp, các hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong trường học còn nhiều vấn đề phức tạp chưa được quản lí hiệu quả, rất cần được quản lý hiệu quả trong thời gian tới. Công tác kiểm tra thực hiện quy định về dạy thêm, học thêm trên địa bàn theo Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 của một số địa phương, đơn vị còn hạn chế.
Tình trạng học sinh bỏ học, học sinh ngồi nhầm lớp vẫn diễn ra ở một vài địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đặc biệt là khu vực Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, việc thực hiện công tác giáo dục hòa nhập cho đối tượng học sinh khuyết tật còn nhiều bất cập, kết quả chưa phản ánh đúng bản chất cần được quan tâm gải quyết bằng những giải pháp tổng thể, đặc biệt đối với giáo dục Tiểu học.
Nguồn: Vụ Giáo dục Tiểu học, Bộ GD&ĐT.
BigSchool: Sau khi phân tích đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2018 - 2019, Quyền Vụ trưởng Thái Văn Tài đã trình bày 5 nhiệm vụ trọng tâm đối với cấp tiểu học trong năm học 2019 - 2020:
1. Thực hiện rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới trường lớp; tăng cường cơ sở vật chất các trường tiểu học đáp ứng điều kiện thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGD ĐT ngày 26/12/2018 (CTGDPT 2018).
Thực hiện rà soát, dự báo quy mô phát triển đối với giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng trong đó chú trọng quy hoạch đất dành cho giáo dục, đồng thời công khai đất quy hoạch để tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng trường lớp đáp ứng nhu cầu học tập của người dân; xây dựng cơ chế, chính sách phát triển giáo dục tiểu học ở các khu công nghiệp, khu chế xuất để thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học.
Việc thực hiện dồn dịch các điểm trường lẻ, sáp nhập các cơ sở giáo dục có quy mô nhỏ tại các địa phương phải theo nguyên tắc đảm bảo quyền lợi học tập của học sinh, tạo thuận lợi cho người dân; phù hợp với quy hoạch đáp ứng được các yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Bảo đảm cơ sở vật chất trường học thực hiện hiệu quả nhiệm vụ năm học; bổ sung xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo phòng học, các phòng chức năng, bếp ăn, nhà vệ sinh, công trình nước sạch và mua sắm bổ sung các thiết bị dạy học còn thiếu, trong đó chú trọng các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo. Giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu phòng học, nhà vệ sinh và công trình nước sạch trong các cơ sở giáo dục; không đưa vào sử dụng các công trình trường, lớp học, nhà vệ sinh chưa bảo đảm an toàn theo quy định.
2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục.
Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 1737/CT-BGDĐT ngày 07/5/2018 về việc tăng cường công tác quản lí và nâng cao đạo đức nhà giáo. Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại đội ngũ giáo viên đủ về số lượng theo định mức để tổ chức dạy học 2 buổi/ngày, đủ về thành phần để thực hiện dạy học các môn học theo quy định của chương trình đảm bảo phù hợp với việc rà soát, sắp xếp, điều chỉnh lại một cách hợp lí hệ thống, quy mô trường, lớp đối với cấp tiểu học.
Thực hiện bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục để chuẩn bị sẳn sàng cho việc triển khai CTGDPT 2018; bồi dưỡng nâng cao năng lực triển khai các nhiệm vụ cho giáo viên đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên tiểu học; dự kiến phân công giáo viên dạy học lớp 1 năm học 2020-2021 để tập trung bồi dưỡng, đảm bảo 100% giáo viên dạy học lớp 1 theo chương trình mới được bồi dưỡng trước khi thực hiện nhiệm vụ.
3. Chuẩn bị sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
Bộ GDĐT tổ chức thẩm định và phê duyệt sách giáo khoa theo CTGDPT 2018, trước hết là sách giáo khoa lớp 1; ban hành Thông tư hướng dẫn lựa chọn sách giáo khoa để các địa phương tổ chức việc lựa chọn sách giáo khoa phù hợp với điều kiện thực tiễn, bảo đảm công khai, minh bạch, phù hợp và hiệu quả; chỉ đạo các địa phương biên soạn, thẩm định và tổ chức thực hiện nội dung giáo dục địa phương trong CTGDPT 2018.
Các địa phương tổ chức tập huấn giáo viên, cán bộ quản lý sử dụng sách giáo khoa lớp 1; hoàn thành các điều kiện chuẩn bị triển khai chương trình lớp 1 theo CTGDPT 2018; tổ chức biên soạn, thẩm định và thực hiện nội dung giáo dục địa phương trong CTGDPT 2018.
4. Chú trọng đổi mới công tác quản lí, quản trị trường học theo hướng đẩy mạnh phân cấp quản lí, tăng cường quyền tự chủ của nhà trường trong việc thực hiện kế hoạch giáo dục đi đôi với việc nâng cao năng lực quản trị nhà trường, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục.
Nâng cao tỉ lệ và chất lượng dạy học 2 buổi/ngày; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lí giáo dục; tích cực và nâng cao hiệu quả trong công tác truyền thông. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, nâng cao vai trò, trách nhiệm, lương tâm, đạo đức nhà giáo. Khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục tiểu học. Đôn đốc kiểm tra, giám sát các cơ sở giáo dục tiểu học trong công tác điều hành, quản lí, tổ chức các hoạt động dịch vụ giáo dục của nhà trường nhằm đảm bảo vệ sinh, an toàn, chất lượng.
Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, có chất lượng Công văn 4612/BGDĐT-GDTrH ngày 03/10/2017 hướng dẫn thực hiện CT GDPT hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh, chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục nghiêm túc, linh hoạt, sáng tạo. Tổ chức thực hiện nội dung dạy học theo hướng tiếp cận định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới; đổi mới phương pháp dạy, phương pháp học và nâng cao chất lượng đánh giá học sinh tiểu học; vận dụng phù hợp những thành tố tích cực của các mô hình, phương thức giáo dục tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục; bảo đảm các điều kiện và triển khai dạy học ngoại ngữ, tin học theo CTGDPT 2018.
5. Tăng cường nền nếp, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục tiểu học. Chú trọng kết hợp dạy chữ với dạy người, giáo dục ý thức, trách nhiệm của công dân đối với gia đình - nhà trường - xã hội cho học sinh tiểu học. Thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua của ngành phù hợp điều kiện từng địa phương.
Tăng cường an ninh, an toàn trường học, tích cực phòng/chống xâm hại và bạo lực học đường; chú trọng xây dựng văn hóa học đường trong môi trường giáo dục; tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh; nâng cao ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, đạo đức nhà giáo cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng cơ chế phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Bảo đảm thực hiện hiệu quả chương trình giáo dục thể chất, y tế trường học; phát động phong trào học bơi và phòng, chống đuối nước cho học sinh.
Ý kiến bạn đọc: